Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa Khuất Nguyên
bói ở 𧴤於
đgt. <từ cổ> dịch chữ bốc cư 卜居 (bói chọn đất để ở), tên bài thơ nổi tiếng của Khuất Nguyên. Tiêu Tử Lương trong bài Hành trạch có câu: “hỏi nhà sườn núi bắc, bói ở ngoài nội tây” (訪宇北山阿,卜居西野外 phỏng vũ bắc sơn a, bốc cư tây dã ngoại). Đỗ Phủ trong bài Ký đề giang ngoại thảo đường có câu: “mê rượu yêu gió trúc, bói ở ắt lâm tuyền” (嗜酒愛風竹,卜居必林泉 thí tửu ái phong trúc, bốc cư tất lâm tuyền). Bói ở lần tìm non Tạ Phó, xin về xưa cổi ấn Ngu Khanh. (Bảo kính 169.3).
chín khúc 𠃩曲
dt. dịch chữ cửu uyển. Uyển: đơn vị đo ruộng đất thời xưa, các thuyết không chính xác, hoặc 12 mẫu một uyển hoặc 30 mẫu là một uyển [Khang Hy]. Khuất Nguyên trong ly tao có câu: “Ta đà tưới chín uyển lan chừ, lại trồng huệ hơn trăm mẫu.” (余既滋蘭之九畹兮, 又樹蕙之百畝 dư ký tư lan chi cửu uyển hề, hựu thụ huệ chi bách mẫu). Hàn Dũ trong bài Hợp giang đình có câu: “Trồng lan đầy chín uyển, giâm trúc quá vạn cành.” (樹蘭盈九畹,栽竹逾萬个 thụ lan doanh cửu uyển, tài trúc du vạn cá). Lan còn chín khúc, cúc ba đường, quê cũ chẳng về nỡ để hoang. (Tự thuật 117.1).
chúa Đông Quân 主東君
dt. tên thần mặt trời, thần quản mùa xuân. Sách Quảng Nhã ghi: “Đông Quân, mặt trời vậy” (東君,日也). Quách Mạt Nhược trong bài Khuất Nguyên có câu: “Người thứ bảy là Đông Quân, thần mặt trời, tượng nam, mặt đỏ, tay cầm cung tên, áo xanh xiêm trắng.” (第七人為東君,太陽神,男像,面色赤,手執弓矢,青衣白裳). Tân Khí Tật đời Tống trong bài từ mộ xuân có câu: “Khá hận Đông Quân, đem xuân đi xuân lại không tăm tích.” (可恨東君 ,把春去春來無迹 khả hận Đông Quân, bả xuân khứ xuân lai vô tích). Mới trách thanh đồng tin diễn đến, bởi chưng hệ chúa Đông Quân. (Tích cảnh thi 210.4).
Chớ người đục đục chớ ta thanh 渚㝵濁濁渚些清
đc. diễn ý câu nói của Khuất Nguyên: “người đời đều đục chỉ mỗi ta trong”. x. Thương Lang, x. Khuất Nguyên. Trào.Chớ người đục đục, chớ ta thanh, lấy phải thì trung, đạo ở kinh. (Bảo kính 156.1)
diều 鷂
◎ Nôm: 鷂 AHV: diêu.
dt. <Nho> diều hâu, diều gốc Hán, hâu gốc Việt, loài chim ăn thịt, hình giống chim ưng nhưng nhỏ hơn (nên gọi là diều ưng 鷂鷹), thường bắt gà con và các loài chim non để ăn, dùng để ví với cái ác hay bọn tiểu nhân. văn điếu Khuất Nguyên của Giả Nghị đời Hán có câu: “Loan phượng náu mình chừ, diều cú cao bay: rều rác vinh hiển chừ, gièm dua đắc chí; hiền thánh long đong chừ, thẳng ngay sấp ngửa.” (鸞鳳伏竄兮,鴟梟翺翔:闒茸尊顯兮,讒諛得志;賢聖逆曳兮,方正倒植 loan phượng phục thoán hề, si hiêu cao tường: tháp nhung tôn hiển hề, sàm du đắc chí; hiền thánh nghịch duệ hề, phương chính đảo thực). Cả câu ý nói: người quân tử như chim loan chim phượng phải náu mình vì bị cuộc đời ô trọc ngăn trở, còn nhiều lũ diều cú (tiểu nhân) thừa cơ lại được bay lượn hoành hành. Phượng những tiếc cao diều hãy liệng, hoa thì hay héo cỏ thường tươi. (Tự thuật 120.5).
đc. <Nho> dịch cụm 鳶飛魚躍 diên phi ngư dược (con diều bay, con cá nhảy). Sách Trung Dung có đoạn: “đạo của người quân tử thật rộng lớn nhưng cũng rất vi diệu. Dù có thế thì đến cả người ngu dốt trong đám đàn ông đàn bà cũng có thể biết được phần nào. Còn như đến đỉnh điểm của nó, thì dẫu thánh nhân cũng còn có điều không thể biết được. Dẫu là những người kém cỏi trong đám đàn ông đàn bà bình thường, cũng có thể thi hành được phần nào. Còn như đến đỉnh điểm của nó, thì dẫu thánh nhân cũng còn có điều không làm được. Rộng lớn như trời đất, mà người ta còn cảm thấy có chỗ không vừa ý. Cho nên đạo của người quân tử, nếu nói chỗ lớn, thì trong thiên hạ chẳng có gì có thể bao chứa được nó; nếu nói chỗ nhỏ, thì trong thiên hạ chẳng có gì có thể tách chia được nó. Kinh Thi nói: “chim diều bay lên trời cao, con cá lặn xuống vực sâu”. Tức là nói xét cả trên trời dưới đất vậy.” (君子之道費而隱。夫婦之愚,可以與知焉,及其至也,雖聖人亦有所不知焉;夫婦之不肖,可以能行焉,及其至也,雖聖人亦有所不能焉。天地之大也,人猶有所憾,故君子語大,天下莫能載焉;語小,天下莫能破焉。《詩》云:‘鳶飛戾天,魚躍于淵’言其上下察也). Bành được thương thua: con tạo hoá, diều bay cá dảy đạo tự nhiên. (Tự thán 103.4). Câu này ý nói cái đạo bao trùm mọi sự vật trong thế giới.
huệ 蕙
dt. tức cây huệ lan, một loài thực vật họ lan, tên khoa học là faber cymbidium, lá hình tuyến, màu hoa hồng, cánh có dải vàng, đầu cánh lại có sắc trắng. Lan huệ chẳng thơm thì chớ, nữa chi lại phải chốn tanh tao. (Bảo kính 167.7). Sách Nhĩ Nhã Dực ghi: “Một nhành một hoa mà hương thơm có thừa ấy là hoa lan. Một nhành mà nhiều hoa mà hương chẳng đủ ấy là hoa huệ” (一榦一花而香有餘者蘭,一榦數花而香不足者蕙). Khuất Nguyên trong li tao có câu: “ta đã tưới lan a chín mẫu rồi, lại trồng thêm trăm mẫu hoa huệ” (予旣滋蘭之九畹兮,又樹蕙之百畝)
lan 蘭
dt. hoa lan, biểu tượng của người quân tử ẩn dật. Hoa lan là loài thích mọc nơi hẻo lánh, đẹp đẽ mà sâu kín. Hoa được ví với tư chất, đạo đức của người quân tử. Khuất Nguyên (390- 278 tcn) là người đầu tiên xây dựng biểu tượng hoa lan. Hoa lan- cỏ thơm và mỹ nhân là ba biểu tượng về con người quân tử xuất hiện rất nhiều trong thơ ông: Ăn hoa rụng bên nhành thu cúc, uống sương sa dưới gốc mộc lan (ly ). Đến khi không được vua tin dùng, ông viết: cỏ lan thơm ngát chê bai chẳng dùng. Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) trong lan xã khế phả (1795) ghi: “Hoa lan là loài quốc hương, ẩn trong hang tối người ta vẫn biết. Đáng yêu tựa giai nhân, đẹp nhưng biết giấu kín vẻ diễm lệ của mình. Đáng cắm với bình vàng. Quân tử vui lòng đeo ở trước ngực. Hoa là chí nhàn dật của tao nhân. Lan ơi, lan ơi! mi chẳng phải là chúa tể của các mùi hương sao! phu tử ta bởi vậy mà vặn đàn ca hát, thú thành thị lâm tuyền đâu kén được ở lan” (thế kỷ anh dịch). (Ngôn chí 17.6)‖ (Thuật hứng 48.2, 52.5, 60.5)‖ (Tự thuật 117.1)‖ (Cúc 216.7)‖ Lan huệ chẳng thơm thì chớ, nữa chi lại phải chốn tanh tao. (Bảo kính 167.7)
ly tao 離騷
dt. tên tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Khuất Nguyên. Ai rặng mai hoa thanh hết tấc, lại chăng được chép khúc “ly tao”. (Thuật hứng 47.8).
mẽ 󱫣
◎ Kiểu tái lập: *kmẽ. “mẽ”, “mã” và “vẻ” là các đồng nguyên tự. “mẽ” còn lưu tích trong “khoe mẽ”. khng. còn nói: “chỉ được cái mẽ bề ngoài” hoặc “chỉ được cái mã”, “làm mầu làm mè”, “làm dáng làm vẻ”. “khoe mẽ” gần với “tỏ vẻ”. Mối quan hệ v-/ m- là điều đã được chứng minh. Phiên khác: mẩy (TVG), mẻ: hồi chuông (ĐDA), mỉa: giống (PL).
dt. vẻ. Phồn hoa một đoạn tỉnh mơ, mẽ chuông tàn cảnh sất sơ. (Tự thán 108.2). Nhà thơ Khuất Nguyên trong bài Bốc cư có câu: “chuông vàng bỏ nát, nồi đất vang rền. Đám nịnh nghễu nghện, người hiền bặt tên.” (黃鐘毀棄,瓦釜雷鳴. 讒人高張;賢士無名). Câu này hàm ý người tài trí thì bị chịu tội, còn những kẻ bất tài thì được ân sủng. pb mỉa.
nhụ tử 孺子
dt. <Nho> trẻ con. Cưu lòng nhụ tử làm thơ dại, ca khúc Thương Lang biết trọc thanh. (Tự thán 96.5). Sách Mạnh Tử thiên Ly lâu thượng có đoạn: “Mạnh Tử nói: có thể nói chuyện với bọn bất nhân chăng? chúng coi chỗ nguy hiểm là an toàn, coi chỗ tối tăm là lợi lộc, lại vui với những cái làm hại mình. Đã có thể nói chuyện được với bọn bất nhân ấy thì thế nào chả có lúc mất nước tan nhà? có cậu bé (nhụ tử) hát rằng: nước Thương Lang trong chừ, có thể rửa dải mũ; nước Thương Lang đục chừ, có thể cùng rửa chân’. Khổng Tử nói: ‘các con nghe lấy! trong thì gột mũ, đục thì rửa chân, ấy là nói về đức tự giữ mình’. Ôi, người tự khinh mình trước rồi sau người đời sẽ khinh cho; nhà tự hủ nát, thì người sẽ phá đi; nước đã tự đánh mình thì sau sẽ có người chinh phạt. Sách Thái Giáp viết: ‘trời làm tai nghiệt, thì ta còn có thể làm trái lại; chứ tự mình tạo ra tai nghiệt thì sống sao nổi’ (câu này ý nói là như vậy đấy). Chữ nhụ tử ở câu trên hàm ý trỏ Khuất Nguyên - kẻ ngây thơ như con trẻ. Đây là lối uyển ngữ mà Nguyễn Trãi đã mượn dùng từ Mạnh Tử.
Thương Lang 滄浪
dt. dòng nước trong xanh, nơi Khuất Nguyên gặp ngư phủ. (Ngôn chí 9.8, 19.1)‖ Cưu lòng nhụ tử làm thơ dại, ca khúc Thương Lang biết trọc thanh. (Tự thán 96.6). x. trọc thanh, Khuất Nguyên, ngư phủ.
thằng chài 尚䊷
dt. <từ cổ> người đánh cá, ngư phủ. Kể ngày con nước toan triều rặc, mách chúng thằng chài chác cá tươi. (Tự thán 76.4). Sách “thằng chài”. (Ngôn chí 9.7), tức tác phẩm ngư phủ của Khuất Nguyên. đng ngư phủ.
trào 嘲
dt. trào lộng. Ngâm sách “thằng chài” trong khuở ấy. Tiếng trào dậy khắp Thương Lang (Ngôn chí 9.8). Khuất Nguyên trong Sở Từ viết: “Khuất Nguyên bị phóng trục, lang thang khắp sông đầm, vừa đi vừa thở than trên bờ, nhan sắc tiều tuỵ, thân hình khô héo. Ngư phủ thấy nên hỏi rằng: ‘ngài chẳng phải là tam lư Đại phu đó sao? sao lại đến nông nỗi này?’ Khuất Nguyên rằng: ‘đời này đều đã đục cả rồi, riêng mình ta trong, chúng nhân đều say hết, còn riêng ta tỉnh, cho nên mới bị đi đày.’ ngư phủ nói: ‘thánh nhân chẳng câu nệ vào vật mà phải biết thay đổi theo thời cuộc. Người đời đều đục, sao ngài chẳng quật bùn tung sóng? chúng nhân đều say, sao ngài chẳng xơi bã khà rượu? hà cớ gì cứ phải sống cao nghĩ sâu, tự làm khổ mình?’ Khuất Nguyên trả lời: ‘ta nghe nói, mới gội đầu xong thì giũ dải mũ, mới tắm xong thì sửa xiêm y; sao có thể đem tấm thân sạch sẽ này mà hứng lấy những vật bẩn thỉu cho được? thà chơi cõi giang hồ, gửi xác nơi bụng cá còn hơn. Sao có thể lấy cái thanh sạch của mình mà đỡ lấy cái cặn bã của thế tục?’ ngư phủ nhếch mép cười mà đi mất, gõ mái chèo ca rằng: nước Thương Lang trong a, có thể gột dải mũ; nước Thương Lang đục a, có thể để rửa chân. Bèn đi thẳng, chẳng nói nữa.”
xuân 春
dt. mùa đầu tiên trong năm. Chim kêu hoa nở, ngày xuân tịnh, Hương lụn cờ tàn, tiệc khách thôi. (Ngôn chí 2.5, 3.4, 13.6, 17.6, 22.6)‖ (Mạn thuật 33.1)‖ (Thuật hứng 56.6, 59.6)‖ (Tự thán 81.8, 102.6)‖ (Bảo kính 138.4, 165.6, 177.3)‖ (Tảo xuân 193.3)‖ (Vãn xuân 195.8)‖ (Xuân hoa tuyệt cú 196.3)‖ (Hạ cảnh tuyệt cú 197.4)‖ (Thu nguyệt 198.1)‖ (Tích cảnh thi 200.3, 201.2, 203.2, 204.4, 205.1, 207.3, 209.1, 210.2, 211.2)‖ (Mai 214.1)‖ (Cúc 216.7), xuân lan: Khuất Nguyên bài Cửu ca có câu: “xuân lan chừ thu cúc, mãi vô cùng chừ xưa nay” (春蘭兮秋菊,長無絕兮終古 xuân lan hề thu cúc, trường vô tuyệt hề chung cổ) ‖ (Trúc thi 221.1, 223.4)‖ (Mai thi 224.1, 226.3)‖ (Đào hoa thi 227.2, 228.2, 229.2, 229.3, 230.4, 231.1)‖ (Thiên tuế thụ 235.2)‖ (Ba tiêu 236.1)‖ (Giá 238.1)‖ (Lão dung 239.2)‖ (mạt lị 242.2)‖ (Hoè 244.2)‖ (Trường an 246.4)‖ (Dương 247.4)‖ (Lão hạc 248.4) ‖ (Điệp trận 250.1, 250.7)‖ (Thái cầu 253.2)‖ (Nghiễn trung ngưu 254.1).
áo 襖
◎ Thuyết Văn: (从衣奥聲). Ss đối ứng: aw³, aw⁵ (30 thổ ngữ Mường) [NV Tài 2005: 171].
dt. đồ mặc che thân trên. (Ngôn chí 4.4, 5.2, 8.8)‖ (Trần tình 39.4)‖ (Thuật hứng 60.5, 65.5, 67.6)‖ (Tự thán 90.7)‖ Ngòi cạn ước ở làm cấn cấn; cửa quyền biếng mặc áo thê thê. (Tự thán 109.4)‖ áo bô: áo vải thô (Tự thán 110.2)‖ (Tức sự 126.6)‖ Áo khách. (Tự thuật 119.1) Ss tổ vịnh có thơ: “áo khách nay đà mỏng, khí lạnh bỗng về nhiều” (客衣今正薄,寒氣乍來饒 khách y kim chính bạc, hàn khí sạ lai nhiêu)‖ Áo sen. (Tức sự 124.4), dịch chữ hà y 荷衣 (áo sen- áo của người ẩn sĩ). Khuất Nguyên trong ly tao có câu: “chằm lá súng lá sen để làm áo chừ, rấp phù dung để làm xiêm” (制芰荷以為衣兮, 集芙蓉以為裳 chế kỹ hà dĩ vi y hề, tập anh dung dĩ vi thường)‖ Áo đơn. (Bảo kính 134.4, 140.4, 186.7)‖ Áo mặc. (Huấn Nam Tử 192.5)‖ Áo lẻ. (Tích cảnh thi 208.3)‖ Áo tía. (Giá 238.2).